Cư dân chủ yếu của vùng Việt Bắc là người Tày và Nùng. Ngoài ra còn có một số dân tộc ít người khác như Dao, H'mông, Lô Lô, Sán Chay. Người Tày và người Nùng, thực ra xưa kia là những tộc người có chung một nguồn gốc lịch sử, cũng thuộc khói Bách Việt. Top 10 homestay Lạng Sơn đậm đà bản sắc dân tộc miền sơn cước 5 Tháng Sáu, 2021 Lạng Sơn 1 miền sơn cước đẹp, nơi đặc trưng có dân tộc Tày - Nùng, chính vì vậy mô hình homestay Lạng Sơn đã được dần hình thành theo nét văn hóa cộng đồng. Cùng kenhhomestay.com khám phá ngay top 10 cái tên homestay ở Lạng Sơn thể hiện đúng tinh thần đó. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng về công tác dân tộc, 5 năm qua, Tỉnh đã tập trung chỉ đạo phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu. UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, UBND các huyện, thành phố tổ chức triển khai thực hiện lồng ghép Cùng với đàn tính, chùm sóc nhạc, chiếc mũ đội đầu của người thực hành then cổ có nhiều đường nét, hình tượng, tạo thành sản phẩm văn hóa in đậm bản sắc của đồng bào Tày, Nùng Lạng Sơn. Theo kết quả kiểm kê của Viện Âm nhạc, Học viện Âm nhạc Quốc gia Breadcrumb. Nhà - ; V/v tuyên truyền tổ chức Hội thảo khoa học về bảo tồn, phát huy giá trị múa sư tử dân tộc Tày, Nùng tỉnh Lạng Sơn và Hội thảo khoa học "Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trên địa bàn tỉnh Lạng Theo kế hoạch, Vụ Văn hóa dân tộc chủ trì, phối hợp với các đơn vị, các địa phương tổ chức chương trình hỗ trợ nghiên cứu, phục hồi, bảo tồn, phát huy văn hóa phi vật thể của các dân tộc. Đó là Lễ mừng cơm mới của dân tộc Tày tại huyện Văn Yên, tỉnh Yên Độc đáo hội "Háng Pỉnh" dịp trăng rằm của người Tày- Nùng ở Lạng Sơn. Với lòng tin thuần phác, người dân tộc Tày, Nùng làm lễ giải hạn nhằm cầu mong một cuộc sống an lành cho những người đang sống, những người đã khuất và cả thế giới tâm linh đều yên ổn xkb6H. Dân tộc Nùng có tỷ lệ 42,9% dân số tỉnh Lạng Sơn, là dân tộc có tỷ lệ cao nhất, sinh sống khắp tỉnh. Hiện ở Lạng Sơn có 3 nhóm dân tộc Nùng gồm Nùng Cháo, Nùng Inh, Nùng Phàn Slình Nùng Phàn Slình Cúm Cọt, Nùng Phàn Slình Hua Lài và Nùng Phàn Slình áo dài. Mỗi nhóm đều có sự trang trí trên trang phục khác nhau, ví dụ như dân tộc Nùng Phàn Slình thường có những đường chỉ nổi và thêu sặc sỡ phần cổ và phần vạt áo, nhưng đối với dân tộc Nùng Cháo trang phục lại được thêu với phần chỉ chìm kín đáo. Đa phần trang phục của dân tộc Nùng thiên về tạo dáng với phần thân áo ngắn được xẻ tà và quần may rộng rãi. Ngoài ra, trên trang phục của phụ nữ Nùng còn phải kể tới một số đồ trang sức làm bằng kim loại đeo trên người như vòng tay, vòng cổ, hoa tai…Trang phục nam của các nhánh dân tộc Nùng cơ bản là giống nhau. Kiểu dáng áo ngắn, may sát người, tay áo dài và khá rộng, cổ áo khoét tròn, áo có 7 cúc tiếng Nùng gọi là chất kháu và thường có 2 túi. Màu sắc chủ đạo là màu chàm, đen. Quần được cắt may theo kiểu chéo gọi là tải dáng, ống quần rộng, đai quần được giữ bằng chun. Bộ trang phục của người Nùng Phàn Slình Cúm Cọt được làm từ vải nhuộm chàm, ít hoa văn. Để bộ trang phục của mình nổi bật, Người phụ nữ Nùng Phàn Slình Cúm Cọt thêu chỉ màu và các hạt bạc nhỏ lên chiếc khăn đội đầu. Phụ nữ Nùng Phàn Slình Cúm Cọt thường mặc áo 5 thân màu chàm bên ngoài, bên trong sẽ mặc áo kẻ xanh hoặc kẻ đỏ, cổ áo có đính tua chỉ màu xanh, phần tua chỉ này sẽ được lộ ra bên ngoài khi mặc để tạo điểm nhấn cho chiếc áo màu chàm. Quần thường rộng khổ, gấu quần không thêu thùa, quần đũng chân què, cặp lá tọa. Khi mặc quấn dây lưng quanh bụng, hai đầu dắt mối ở hai bên hông. Phụ nữ dân tộc Nùng Phàn Slình Cúm Cọt Tên gọi Nùng Phàn Slình Hua Lài nghĩa là Nùng Phàn Slình Đầu Chấm Trong tiếng Nùng, “Hua” nghĩa là “Đầu”, “Lài” nghĩa là “Chấm”. Tên gọi này được bắt nguồn từ chiếc khăn đội đầu của người phụ nữ Nùng. Trên nền khăn màu chàm, người phụ nữ thêu những hạt màu trắng theo hàng tạo nên những đốm nhỏ nổi bật. Mỗi lần đội lên đầu, người phụ nữ được ví như đang đội trên đầu một bầu trời sao. Áo phụ nữ thường 4 thân hoặc 5 thân màu chàm. Áo ngắn được may rộng cả phần thân và tay, giúp người mặc thoải mái hơn trong đời sống sinh hoạt hằng ngày hoặc khi lao động sản xuất. Cổ tay áo và phía trước ngực được đắp thêm một miếng vải khác màu tạo nên nét đặc sắc cho bộ trang phục. Quần của phụ nữ may kiểu đũng chéo chân què, cạp lá tọa. Khi mặc, dùng giải rút luồn vào phần cạp quần và buộc thắt lại. Ngày nay, quần đũng chéo dần được thay thế bằng quần lụa hoặc vải sa-tin gấp nếp 2 ống tạo đường nét mềm mại hơn. Phụ nữ dân tộc Nùng Phàn Slình Hua Lài Sau khi dệt những mảnh vải bằng khung cửi gỗ, người dân tộc Nùng lấy lá và thân cây chàm về ngâm vào chum nước khoảng một tháng cho đến khi nhàu nát. Sau đó lọc lấy nước rồi trộn thêm một ít vôi, nhân hạt đào phai giã nát tạo thành hỗn hợp nước màu xanh lam đậm hay còn gọi là màu chàm. Xưa kia, Việc thêu thùa với con gái người Nùng rất được coi trọng. Nhìn vào từng đường kim mũi chỉ có thể biết được đâu là cô gái khéo léo, đảm đang. Khi về nhà chồng họ sẽ mang theo chăn, gối tự làm và coi đó như “của hồi môn” cho hạnh phúc lứa đôi. Họa tiết thổ cẩm được phối hợp giữa nhiều màu chỉ, thêu riêng từng màu. Tất cả họa tiết thổ cẩm đều được thêu tay trên nền vải chàm truyền thống. Đó là sự cách điệu họa tiết hình hoa lá, mặt trời... Trên những chiếc áo chàm, phần khuy áo được làm thủ công, đây là công đoạn mất nhiều thời gian nhất. Phải tốn hơn 3 ngày mới khâu xong hàng khuy áo đều đặn, đẹp mắt. Tất cả họa tiết thổ cẩm được thêu trên nền vải chàm, họa tiết đối xứng. Ngày nay, dù cuộc sống hiện đại và bận rộn hơn trước nhưng người dân tộc Nùng ở một số huyện trên địa bàn tỉnh vẫn mặc trang phục truyền thống trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Đó là cách để gìn giữ, bảo tồn những nét đẹp trong văn hóa và trang phục của người dân tộc Nùng. Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Lạng Sơn Trang phục Dao Lù Gang ở Mẫu Sơn, Lạng SơnLạng Sơn có nhiều dân tộc anh em Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay, Mông… Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục của đồng bào các dân tộc Lạng Sơn là một di sản văn hóa truyền thống độc đáo mang bản sắc đặc trưng của từng dân nhiên, một thực trạng chung hiện nay, do sự phát triển nhanh của xã hội, sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc đã phần nào ảnh hưởng đến nhận thức cũng như thị hiếu thẩm mỹ, một bộ phận không nhỏ người DTTS đã thay đổi thói quen mặc trang phục truyền thống bằng trang phục phổ thông, đặc biệt là ở lớp trẻ. Đặc biệt hiện nay, các làng nghề dệt thổ cẩm còn rất ít, các nghệ nhân biết dệt và may trang phục truyền thống ngày càng mai một; trang phục truyền thống bị pha tạp nhiều cả về chất liệu và kiểu dáng, khó phân biệt được trang phục của dân tộc nào…Trước thực trạng đó, ngày 18/1/2019, Bộ trưởng Bộ VHTT&DL đã có Quyết định số 209 về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Triển khai thực hiện đề án trên, UBND tỉnh Lạng Sơn đã có Kế hoạch số 117/KH-UBND, ngày 3/7/2019 về việc thực hiện “Đề án bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Định kỳ hằng năm, Sở VHTT&DL đã triển khai thực hiện bằng các chương trình, hoạt động cụ thể. Trong đó, việc tổ chức hội nghị, hội thảo là một trong những bước thu thập, tổng hợp, công bố các tư liệu, tài liệu, kết quả nghiên cứu của các chuyên gia, các nhà quản lý, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, nghệ nhân, chủ thể văn hóa. Từ đó nhận diện, đánh giá một cách đồng bộ, thống nhất, toàn diện các thành tố liên quan đến trang phục truyền thống của các DTTS Việt Nam trên địa bàn phục của phụ nữ dân tộc Nùng Lạng SơnTại Hội thảo đã có gần 30 tham luận của các đại biểu là nhà quản lý văn hóa, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa trong và ngoài tỉnh Lạng Sơn đóng góp ý kiến tập trung vào hai chủ đề những biến đối của trang phục các DTTS hiện nay - nguyên nhân, tác động và ảnh hưởng; báo chí Lạng Sơn với việc lan tỏa giá trị trang phục truyền thống các DTTS; bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị văn hóa trong trang phục truyền thống gắn với phát triển du lịch ở Lạng Sơn; tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức, hành động của cộng đồng về ý nghĩa, giá trị của công tác bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống…Hội thảo là cơ sở để Sở VHTT&DL tỉnh Lạng Sơn tiếp tục tham mưu đề xuất phương hướng, giải pháp bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trên địa bàn tỉnh gắn với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội địa phương. Thời sự Thứ bảy, 26/9/2015, 0200 GMT+7 Sau khi dệt những mảnh vải bằng khung cửi gỗ, người dân thu hái cây chàm về ngâm vào chum nước cả tháng cho đến khi nhàu nát, sau đó chắt lấy nước rồi trộn một ít vôi, nhân hạt đào phai giã nát và ngâm vải vào đó. Họa tiết thổ cẩm của người Nùng Phàn Sình. Ảnh Hồng Vân. Vải diềm bâu nhuộm nước lá chàm chuyên để may trang phục truyền thống của người Nùng ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Tuy nhiên, mỗi chi, nhánh của dân tộc Nùng lại có cách trang trí, thêm bớt họa tiết riêng biệt. Không chỉ có quần áo mà cả vỏ gối, túi xách, tay nải, khăn đội đầu, khăn trải bàn... của người Nùng Cháo, Nùng Ing, Nùng Phàn Sình đều làm bằng vải chàm. Sau khi dệt những mảnh vải bằng khung cửi gỗ có kích thước bề ngang 40 cm, người dân thu hái lấy cây chàm về ngâm vào chum nước hàng tháng trời cho đến khi lá nhàu nát. Sau đó họ mới chắt lọc lấy nước rồi trộn một ít vôi, nhân hạt đào phai giã nát và khoắng đều tạo thành thứ nước hỗn hợp màu xanh lam đậm hay còn gọi là màu chàm. Công đoạn nhuộm chàm cũng rất cầu kỳ. Mỗi ngày phải hai lần vớt vải từ chum nước nhuộm chàm ra phơi khô rồi lại ngâm vào chum. Liên tục lặp lại công đoạn đó trong vòng một tháng mới được tấm vải chàm ưng ý. Nếu làm hỏng một trong các công đoạn này coi như tấm vải không thành, phải bỏ đi làm lại. Việc thêu thùa với con gái người Nùng trước kia rất được coi trọng, nhìn vào từng đường kim mũi chỉ có thể biết được đâu là cô gái khéo léo, đảm đang. Khi về nhà chồng họ sẽ mang theo chăn, gối tự làm và coi đó như “của hồi môn” cho hạnh phúc lứa đôi. Tất cả họa tiết thổ cẩm đều được thêu tay trên nền vải chàm truyền thống. Đó là sự cách điệu họa tiết hình hoa lá, mặt trời... Phụ nữ người Nùng khi thêu thường không cần dùng khung. Ảnh Hồng Vân. Vừa chăm chút từng đường kim mũi chỉ cho sản phẩm, bà Nông Thị Nghị ở xã Hòa Cư Cao Lộc vừa giải thích, nếu thêu sai một màu chỉ sẽ phải dỡ ra thêu lại rất mất công. Họa tiết thổ cẩm được phối hợp giữa nhiều màu chỉ, thêu riêng từng màu. Bà Nghị thường tranh thủ buổi trưa rảnh rỗi để thêu thùa. Nếu làm liên tục thì mất 3 ngày mới thêu xong áo gối truyền thống có 9 bông hoa. Thông thường, phụ nữ người Nùng Phàn Sình khi thêu không mấy khi sử dụng đến khung thêu. “Người nào thêu càng đều, càng đẹp thì càng thể hiện được khả năng tư duy, bàn tay khéo léo trên nền chàm, nên từ trước đến nay tôi vẫn thêu trơn như thế này”, người đàn bà 62 tuổi cho biết. Trên những chiếc áo chàm, phần khuy áo được làm thủ công, đây là công đoạn mất nhiều thời gian nhất. Phải tốn hơn 3 ngày mới khâu xong hàng khuy áo đều đặn, đẹp mắt. Đối với những chiếc vỏ gối dài 1,2 m và 1,8 m, tất cả họa tiết thổ cẩm được thêu trên nền vải chàm, họa tiết đối xứng. Ông Chu Minh Lợi 62 tuổi, chồng bà Nghị bảo từ ngày mở cửa hội nhập, hàng hóa các nước tràn vào, thanh niên nam nữ người dân tộc nhanh chóng tiếp cận, thay thế những bộ trang phục màu chàm bằng các loại quần áo vải hoa, vải bò. Ngay cả những người cao tuổi trước đó mặc quần áo chàm cả ngày, nay cũng cất trang phục truyền thống vào rương, hòm. Vì thế ít người còn mặn mà với việc làm sản phẩm thêu thủ công trên vải chàm. Những chiếc túi vải, khăn, gối... không còn xuất hiện trong cuộc sống hiện đại mà thay vào đó là sản phẩm may sẵn. “Không còn ai mặc quần áo Nùng Phàn Sình xịn nữa đâu, họ mua vải kẻ may áo, vải phin bóng may quần. Cũng kiểu dáng truyền thống, nhưng chất liệu thay đổi rồi”, ông Lợi buồn bã nói. Ông Chu Minh Lợi bên tấm thổ cẩm theo nhiều hoa văn hình hoa lá, mặt trời. Ảnh Hồng Vân. Tiếc cho thổ cầm truyền thống đang dần mai một, ông Lợi là một trong số ít người ở huyện Cao Lộc còn duy trì công việc nhuộm chàm và thêu sản phẩm từ vải chàm. Ông tự hào bảo, dù mất công sức, nhưng sản phẩm làm ra đường chỉ rất chắc chắn, màu vải chàm không phai, hoa văn độc đáo đậm nét dân tộc, đường thêu điêu luyện và mềm mại. Ông Hoàng Văn Lương, Chủ tịch xã Hòa Cư Cao Lộc cho biết, chính quyền đã đến tuyên truyền, vận động người dân tích cực giữ gìn trang phục truyền thống, nghề thêu thổ cẩm cổ truyền. Nhưng điều khó khăn nhất là lớp trẻ hiếm người còn yêu thích, dành thời gian cho việc thêu những chiếc túi, gối. Bảo tồn và duy trì nghề thêu thổ cẩm cũng đang là một trong những vấn đề cấp thiết trong quá trình xây dựng nông thôn mới của địa phương. Hồng Vân Từ nhiều đời nay, người Nùng sống ở xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn sở hữu một bí thuật lạ lùng. Bệnh nhân dù rách da, đứt gân, vết thương máu chảy đầm đìa, nhưng khi tìm đến đây, người Nùng chỉ cần đọc một câu thần chú là có thể cầm máu ngay lập tức. Thuật cầm máu lạ kỳ Những người biết bùa chú này hiện còn lại rất ít, hầu hết đều vào cái tuổi gần đất xa trời. Một trong số những người đó là ông già mù Thi Giẳng ở thôn Đồng Đĩnh, xã Chi Lăng. Ông Giẳng năm nay đã 78 tuổi, đôi mắt mù lòa từ lúc bẩm sinh, chưa một lần biết đến ánh mặt trời. Ông Giẳng có đôi tai rất to, giọng nói sang sảng và đặc biệt tỏ ra vô cùng nhanh nhẹn. “Lão mù Thi Giẳng” bồi hồi kể lại ngày lặn lội đi học bùa chú Khi tôi hỏi về thuật cầm máu của người Nùng, ông Giẳng hướng đôi mắt mù lòa về phía tôi rồi trầm ngâm kể chuyện “Ngày xưa, lão đam mê thuật này lắm. Được biết thôn Quán Thanh Chi Lăng có một ông thầy cao tay về thuật này, lão dò dẫm tìm đường đến bái sư. Nhưng người thầy thấy lão mù lòa, dáng hình lại cổ quái nên kiên quyết không dạy. Được cái lão nhanh trí, biết thầy nghiện thuốc nặng nên lặn lội đi mua thuốc về biếu. Nhưng cũng phải vài lần, thầy mới chịu nhận lão làm đệ tử.” Tuy ông mù, không đọc được chữ nhưng chỉ nghe khẩu quyết vài lần là nhớ. Có lần, thầy muốn kiểm tra xem bùa chú có ở lại với ông Giẳng không bèn chặt một cây chuối non để nhựa cây trào ra xối xả. Ông Giẳng không ngần ngại đọc chú, nhựa cây đột nhiên ngừng chảy hẳn. Lần khác, thầy dùng cây xương rồng để thử tài ông Giẳng. Ông Giẳng nín hơi, đọc một mạch câu thần chú, y rằng nhựa không chảy ra nữa. Theo ông Giẳng, thuật niệm chú chữa thương áp dụng tốt cho người bị chảy máu ngoài da, còn những trường hợp đứt cụt hẳn ngón tay, ngón chân thì ông chưa từng gặp bao giờ. “Trường hợp nặng nhất tôi từng cầm máu là ông Bình ở thôn Quán Thanh. Năm 1960, ông này đi chặt cây thuốc lá, chẳng may bị dao lia vào chân, máu chảy xối xả, được người dân dìu vào nằm ở bờ sông. Có người lấy xe đạp chở tôi đến cầm máu cho ông Bình. Đọc chú được một lúc, máu ngừng chảy, tôi lấy giẻ rách bịt vào chân để người ta cõng ông ấy sang sông về nhà", ông Giẳng kể. Điều quan trọng nhất trong thuật cầm máu là phải nín hơi rồi đọc liền mạch câu thần chú mà không được thở, không để ngắt quãng. Cũng vì đã quá già, phổi không còn khỏe để nín hơi dài cả phút như trước nên đã 4 năm nay, ông Thi Giẳng chỉ chữa cho vài trường hợp chảy máu trầm trọng. Có lần, chính vợ của ông đang băm rau lợn thì vô tình để dao băm vào giữa ngón tay cái. Cũng may, ông đọc chú kịp thời mà bà cầm máu được ngay. Đến bây giờ, ngón tay bà vẫn còn một vết sẹo rất dài. Bài thuốc "của trời" nối liền xương gãy Ngoài ông Thi Giẳng, ở xã Chi Lăng, người biết đến thuật cầm máu bí truyền này phải kể đến vợ chồng ông Nông Quốc Vinh và bà Triệu Thị Cỏ. Khi ông Vinh đọc thần chú thì vết rách, vết đứt dù sâu đến đâu, dù máu chảy nhiều thế nào cũng đều có thể cầm máu. Còn bà Cỏ thì có vị thuốc bí truyền được bào chế từ 7 cây thuốc quý có thể làm lành xương khớp bị gãy chỉ trong 1 đến 2 tuần. 5 trong số 7 vị thuốc đó còn chưa có trong danh sách thảo dược của Nhà nước. Bà Triệu Thị Cỏ vui vẻ tiếp chuyện phóng viên. Ông Vinh năm nay đã 70 tuổi, còn bà Cỏ hơn chồng 2 tuổi. Trước đây, bà Cỏ là người Nùng ở sâu trong núi Vạn Linh, phải qua một con đèo khúc khuỷu mới đến được bản của bà. Ông Vinh đến với bà cũng là duyên phận, quý nhau từ bài thuốc, miếng bùa. Những ngày tháng chiến tranh đói nghèo, y học còn lạc hậu, chỉ với bài thuốc quý và câu thần chú, ông bà đã cứu bao nhiêu người khỏi mất mạng. Ông Vinh kể, ông được bố đẻ là ông Nông Văn Lộc đã mất truyền lại cho thuật cầm máu từ hồi nhỏ. Khẩu quyết niệm chú rất đơn giản, không cần bất cứ thủ tục cúng lễ gì khi thực hiện. Ông Vinh tụt dép, kéo quần lên chỉ cho tôi xem một vết sẹo rất sâu nơi ngón chân cái. “Một lần bất cẩn, tôi bị búa chặt vào chân, máu phun ra xối xả. Cởi giày ra, tôi lấy tay bóp mạnh chỗ vết thương rồi đọc thần chú. Đọc xong, ngón chân không chảy thêm một giọt máu nào nữa. Khu vực núi đó cách nhà chừng 9 km nhưng tôi vẫn tập tễnh đi bộ về lấy thuốc đắp cho liền thịt. Vài ngày sau thì lại đi làm bình thường được”, ông Vinh khoái chí kể. Bà Cỏ dù tuổi cao nhưng vẫn còn nhanh nhẹn lắm. Hỏi chuyện về bài thuốc chữa gãy xương, bà tự hào cho biết, cả vùng này chỉ mình bà biết cây thuốc để chữa. Bài thuốc này muốn công hiệu phải kiếm đủ 7 loài cây mà bà gọi là “7 cây thuốc trời”. Trong đó, chỉ có 1 cây mọc ven bờ ruộng, còn 6 cây khác mọc trên núi đá, phải tùy mùa mới có thể tìm được. Khi tìm đủ vị thuốc rồi, có loại lấy lá, có loại lấy thân, loại thì lấy rễ, đem băm nhỏ rồi sao khô. Người bị thương phải dùng nẹp tre cố định lại chỗ gãy, sau đó dùng rượu nặng tẩm vào thuốc đắp lên đó rồi bó vào. Bài thuốc này ngoài công dụng chữa gãy xương còn có thể làm lành vết thương rất hiệu quả. Bà Cỏ kể, cách đây khoảng một năm, có cô hàng xóm tên Bình gặp tai nạn xe máy, ngón tay út bị dập nát. Khi cấp cứu tại bệnh viện tỉnh, các bác sĩ khâu để cầm máu nhưng vết thương bị nhiễm trùng, chỉ còn cách tháo khớp ngón tay mới có thể cứu được. Cô Bình đã xin ra viện để về nhà suy nghĩ. Sau đó, cô cầu cứu tới phương thuốc bí truyền của bà Cỏ. Bà chữa đúng phép, chỉ 2 tuần sau, ngón tay cô Bình gần như đầy thịt, cũng không còn nhiễm trùng, sau 1 tháng là đã tháo băng. Theo lời bà Cỏ, mọi ca bệnh đến xin thuốc của bà đều khỏi, nhưng chỉ có trường hợp của cô gái tên Thắng khiến cho bà luôn áy náy. Năm đó, Thắng mới 15 tuổi, một lần đi chăn trâu bị ngã gãy xương khuỷu tay, được người nhà vội vã đưa đến nhà bà Cỏ. Bà lấy 4 thanh tre nẹp vào rồi bó thuốc cho cô. Nhưng do thấy bệnh nhân đau khóc dữ quá, bà bị cuống, lựa nhầm một thanh tre non làm nẹp, khiến cho xương tay của Thắng sau khi lành đã bị cong. Hai năm trở lại đây, vì tuổi cao sức yếu, không đủ sức lên tận đỉnh núi cao hái thuốc, bà Cỏ liền lấy vài loài cây hợp đất về trồng trong vườn. Bà bảo vườn thuốc của bà quý nhất là loài cây “Mắc chẻ phạ” quả của trời. Cây mọc như cây bụi, quả nhỏ li ti màu đỏ tía. Cây này rễ dùng ngâm rượu chữa bệnh kiết lị, đại tràng, đường ruột rất tốt. Còn quả của cây khi chín đem về ngâm rượu, đau răng chỉ làm một ngụm ngậm 5 phút là hết hẳn. Vườn nhà bà Cỏ còn có cây “Chiến thá tọt” lá to mà dài. Cây này ngâm rượu để bóp đau lưng, chữa xương khớp là nhất. 1 trong 7 vị thuốc quý mà bà Cỏ dùng chữa xương gãy là cây Cắng Linh cây con khỉ. Bà Cỏ kể “Ngày xưa, người Nùng đi rừng, thấy con khỉ mẹ lấy thân cây này nhai nát, rồi đắp lên những chỗ gãy xương hoặc chảy máu của khỉ con, mới mang về chữa cho người”. Bao năm qua, rất nhiều lần bà thử trồng loài cây này mà không được vì cây chỉ ưa sống ở đỉnh núi đá. Đến lúc hết hi vọng, định phạt chỗ đất đi để trồng cây khác thì lại thấy một mầm xanh hé nhú, mọc thành cây Cắng Linh như bây giờ. Bài thuốc quý chữa gãy xương, bà cũng truyền lại cho con gái. Các cô cũng ghi, cũng học nhưng dường như chẳng ai còn muốn lên đỉnh núi cao tìm thuốc như bà ngày xưa. Thần chú của ông Vinh, thuốc quý của bà Cỏ chẳng mấy năm nữa mà thất truyền nếu không truyền được lại cho ai. Phó trưởng trạm y tế xã cũng phải đến “cầu” thuốc Trực tiếp dẫn người viết vào nơi cư ngụ của những người Nùng nắm bí quyết bài thuốc lạ thường, anh Hoàng Văn Cường – Phó trưởng trạm y tế xã Chi Lăng, phụ trách lĩnh vực Đông y,cho biết “Bà Cỏ có rất nhiều cây thuốc, bài thuốc quý, nhiều cây trong danh sách thảo dược của Nhà nước còn chưa có. Tôi cũng không ít lần đến nhà bà Cỏ để xin thuốc, đặc biệt xin quả mắc chẻ phạ để chữa đau răng.” Trong bài viết này, các bạn hãy cùng Địa Ốc Thông Thái tìm hiểu một cách chi tiết về dân tộc Nùng nhé. Các nội dung bao gồm phong tục tập quán, hoạt động sản xuất, văn hóa, trang phục, tổ chức cộng đồng, tập tục cưới xin, sinh đẻ, ma chay của người Nùng. Tổng quan về người Nùng Tên gọi khác Xuồng, Giang, Nùng An, Nùng Lòi, Phần Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh, Quý Rịn, Nùng Dín, Khen Lài. Ngôn ngữ Tiếng Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái ngữ hệ Thái – Ka ai, cùng nhóm với tiếng Tày, tiếng Thái, và nhất là tiếng Choang ở Trung Quốc… Dân số người Tổng điều tra dân số 2019. Cư trú Sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang. Lịch sử Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm. Hình ảnh dân tộc Nùng trong trang phục truyền thống. Tác giả Nguyễn Minh Ngọc. Trang phục truyền thống của dân tộc Nùng ặc điểm trang phục ít có biểu hiện đặc sắc về phong cách tạo hình áo nam giống nhiều dân tộc khác, áo nữ là loại năm thân màu chàm, quần chân què ít trang trí. iểm khác nhau giữa các nhóm, một trong những biểu hiện là cách đội khăn và các loại khăn trang trí khác nhau đôi chút. Hình ảnh dân tộc Nùng trong bộ tem “Cộng đồng các dân tộc Việt Nam” phát hành năm 2005. Bộ tem đã được ghi vào sách kỷ lục Việt Nam là bộ tem lớn nhất từ trước tới nay. Nhà Tày – Nùng có những đặc trưng riêng không giống các cư dân khác trong cùng nhóm ngôn ngữ Tày – Thái. Bộ khung nhà Tày – Nùng cũng được hình thành trên cơ sở các kiểu vì kèo. Có nhiều kiểu vì kèo khác nhau, nhưng chủ yếu là bắt nguồn từ kiểu vì kèo – ba cột. ể mở rộng lòng nhà người ta thêm một hoặc hai cột vào hai bếp vì kèo ba cột để trở thành vì kèo năm hoặc bảy cột. Song không có vì kèo nào vượt quá được bảy cột. Bộ khung nhà chúng ta dễ nhận ra hai đặc trưng Ô vì kèo, đứng trên lưng xà, kẹp giữa hai cột có một trụ ngắn hình “quả bí” hay quả dưa nghé qua, đầu đấu vào thân kèo. ệ liên kết các cột trong một vì kèo hay giữa các vì kèo với nhau, người ta không dùng các đoạn xà ngắn mà dùng một thanh gỗ dài xuyên qua thân các cột. Mặt bằng sinh hoạt của nhà Tày – Nùng trên cơ bản là giống nhau mặt sàn chia làm hai phần một dành cho sinh hoạt của nữ, một dành cho sinh hoạt của nam. Các phòng và nơi ngủ của mọi thành viên trong nhà đều giáp vách tiền và hậu. Nói đến nhà Tày – Nùng có lẽ không nên bỏ qua một loại hình nhà khá đặc biệt, đó là “nhà phòng thủ”. Thường là có sự kết hợp gữa nhà đất và nhà sàn đúng hơn là nhà tầng. Tường xây gạch hoặc trình rất dày 40-60cm để chống đạn. Trên tường còn được đục nhiều lỗ châu mai. Có nhà còn có lô cốt chiến đấu. Loại nhà này chỉ có ở Lạng Sơn gần biên giới phía bắc để phòng chống trộm cướp. Tập tục khi làm nhà mới Làm nhà mới là một trong nhiều công việc hệ trọng. Vì thế khi làm nhà người ta rất chú ý tới việc chọn đất, xem hướng, chọn ngày dựng nhà và lên nhà mới với ước mong có cuộc sống yên vui, làm ăn phát đạt. Hoạt động sản xuất – kinh tế Nguồn sống chính của người Nùng là cây lúa và cây ngô. Họ kết hợp làm ruộng nước ở các vùng khe dọc với trồng lúa cạn trên các sườn đồi. ồng bào Nùng còn trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm như quýt, hồng… Hồi là cây quí nhất của đồng bào, hàng năm mang lại nguồn lợi đáng kể. Các ngành nghề thủ công đã phát triển, phổ biến nhất là nghề dệt, tiếp đến là nghề mộc, đan lát và nghề rèn, nghề gốm. Người Nùng làm việc rất thành thạo nhưng do cư trú ở những vùng không có điều kiện khai phá ruộng nước cho nên nhiều nơi họ phải sống bằng nương rẫy là chính. Ngoài ngô, lúa họ còn trồng các loại củ, bầu bí, rau xanh…Họ biết làm nhiều nghề thủ công dệt, rèn, đúc, đan lát, làm đồ gỗ, làm giấy dó, làm ngói âm dương… Nhiều nghề có truyền thống lâu đời nhưng vẫn là nghề phụ gia đình, thường chỉ làm vào lúc nông nhàn và sản phẩm làm ra phục vụ nhu cầu của gia đình là chính. Hiện nay, một số nghề có xu hướng mai một dần dệt, một số nghề khác được duy trì và phát triển rèn. Ở xã Phúc Sen huyện Quảng Hoà, Cao Bằng rất nhiều gia đình có lò rèn và hầu như gia đình nào cũng có người biết làm nghề ở vùng người Nùng phát triển. Người ta thường đi chợ phiên để trao đổi mua bán các sản phẩm. Thanh niên, nhất là nhóm Nùng Phàn Slình, thích đi chợ hát giao Ở nhiều vùng người Nùng ăn ngô là chính. Ngô được xay thành bột để nấu cháo đặc như bánh đúc. Thức ăn thường được chế biến bằng cách rán, xào, nấu, ít khi luộc. Nhiều người kiêng ăn thịt trâu, bò, chó. Phương tiện vận chuyển Các phương thức vận chuyển truyền thống là khiêng, vác, gánh, mang, xách. Hiện nay ở một số địa phương người Nùng sử dụng xe có bánh lốp do các vật kéo để làm phương tiện vận chuyển. Tổ chức cộng đồng người Nùng ồng bào Nùng sống thành từng bản trên các sườn đồi. Thông thường trước bản là ruộng nước sau bản là nương và vườn cây ăn quả. Quan hệ xã hội Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Nùng đã đạt đến trình độ phát triển như ở người Tày. Ruộng và nương thâm canh đã biến thành tài sản tư hữu, có thể đem bán hay chuyển nhượng. Hình thành các giai cấp địa chủ và nông dân. Văn hóa nghệ thuật Người Nùng thích ăn các món xào mỡ lợn. Món ăn độc đáo và được coi trọng là sang trọng của đồng bào là “Khau nhục”. Tục mời nhau uống rượu chéo chén có lịch sử từ lâu đời, nay đã thành tập quán của đồng bào. ồng bào Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú và có nhiều làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Tiếng Sli giao duyên của thanh niên Nùng Lạng Sơn hòa quyện vào âm thanh tự nhiên của núi rừng gây ấn tượng sâu sắc cho những ai đã một lần lên xứ Lạng. Then là làn điệu dân ca tổng hợp có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểu diễn đã làm rạo rực tâm hồn bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương. Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau là hội “Lùng tùng” còn có nghĩa là hội xuống đồng được tổ chức vào tháng giêng hàng năm. Phong tục cưới hỏi của người Nùng Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu và khi yêu nhau họ thường trao tặng nhau một số kỷ vật. Các chàng trai tặng các cô gái đòn gánh, giỏ đựng con bông hắc lì và giỏ đựng con sợi cởm lót. Còn các cô gái tặng các chàng trai áo và túi thêu. Tuy nhiên hôn nhân lại hoàn toàn do bố mẹ quyết định, trên cơ sở hai gia đình có môn đăng hộ đối không và lá số đôi trai gái có hợp nhau hay không. Nhà gái thường thách cưới bằng thịt, gạo, rượu và tiền. Số lượng đồ dẫn cưới càng nhiều thì giá trị của người con gái càng cao. Việc cưới xin gồm nhiều nghi lễ, quan trọng nhất là lễ đưa dâu về nhà chồng. Sau ngày cưới cô dâu vẫn ở nhà bố mẹ đẻ cho đến sắp có con mới về ở hẳn nhà chồng. Tục sinh đẻ của người Nùng Ngoài lễ đặt bàn thờ bà mụ và lễ mừng trẻ đầy tháng ở một số nhóm Nùng còn tổ chức lễ đặt tên cho trẻ khi chúng đến tuổi trưởng thành. Phong tục tang ma của người Nùng Có nhiều nghi lễ với mục đích chính là đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Phong tục thờ cúng của người Nùng Thờ tổ tiên là chính. Bàn thờ đặt ở nơi trang trọng, được trang hoàng đẹp, ở vị trí trung tâm là bức phùng slằn viết bằng chữ Hán cho biết tổ tiên thuộc dòng họ nào. Ngoài ra còn thờ thổ công, Phật bà Quan âm, bà mụ, ma cửa, ma sàn, ma ngoài sàn phi hang chàn… và tổ chức cầu cúng khi thiên tai, dịch bệnh… Khác với người Tày, người Nùng tổ chức mừng sinh nhật và không cúng giỗ. Phong tục ngày tết Người Nùng ăn tết giống như ở người Việt và người Tày. Lịch của người Nùng Người Nùng theo âm lịch. Chữ viết và học tập của người Nùng Có chữ nôm Nùng dựa theo chữ Hán, đọc theo tiếng Nùng và chữ Tày – Nùng trên cơ sở chữ cái La-tinh. Lễ hội và vui chơi của người Nùng Trong các ngày tết, ngày lễ, ngày hội thường có một số trò chơi như tung còn, đánh cầu lông, đánh quay, kéo co… Mang đồ dẫn cưới sang nhà gái.

dân tộc nùng lạng sơn