Bô xít. Bô xít (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp bauxite /boksit/) là một loại quặng nhôm nguồn gốc đá núi lửa có màu hồng, nâu được hình thành từ quá trình phong hóa các đá giàu nhôm hoặc tích tụ từ các quặng có trước bởi quá trình xói mòn.
Hoạt động của Công đoàn Việt Nam những năm 1929-1935: Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức cơ sở Đảng ở Việt Nam. Trong hoạt động của mình, Đảng rất chú trọng phát triển cơ sở Công hội đỏ trong giai cấp công nhân và
3. BAUXITE - QUÁ TRÌNH THÀNH TẠO _ Bauxite là một loại quặng nhôm, là loại quặng trầm tích có màu hồng, nâu. Nó bao gồm chủ yếu là các khoáng vật của nhôm như gibbsite Al (OH)3, boehmit và diaspore AlO (OH), cùng với các ôxít của sắt như goethite và hematite, khoáng vật đất sét như
Đại hội lần thứ V Công đoàn Việt Nam tiến hành từ ngày 16-18/11/1983 đã khẳng định mục tiêu: "Động viên công nhân, lao động thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng, là phát triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu", Đại
- Giai đoạn phát triển và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh (1941 đến 1969): + Đầu năm 1941, chủ tịch Hồ Chí Minh đã về nước, trực tiếp chỉ đạo Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5 năm 1941), tại hội nghị này đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết.
Theo RBTH, một ngày sau khi Đức đầu hàng, một lực lượng bộ binh khoảng 200 người của Liên Xô đã đổ bộ lên đảo Bornholm của Đan Mạch - khu vực bị chiếm giữ bởi hơn 11.000 binh sĩ đồn trú của Đức. Người Đức ngay lập tức tuyên bố rằng họ chỉ đầu hàng quân Đồng minh phương Tây, quân Xô Viết hoặc là rời khỏi đây, hoặc là hãy sẵn sàng bị tiêu diệt.
Nửa sau thế kỷ XIX là giai đoạn hành thành của Xã hội học, với sự ra đời của các khoa đào tạo về xã hội học trong các trường đại học ở Đức, Mỹ, Pháp, cùng với việc phát hành tờ tạp chí xã hội học (1896) và sự phát triển nhanh chóng của đội ngũ các nhà nghiên cứu và giảng dạy về xã hội học ở các trường đại học.
mNwd. Quá trình phát xít hóa bộ máy nhà nước ở Đức diễn ra nhanh chóng vì lí do nào dưới đây? A. Thế lực của Đảng Quốc xã lớn mạnh. B. Được sự ủng hộ của giai cấp tư sản. C. Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội dân chủ thiếu thống nhất trong đấu tranh chống phát xít. D. Con đường phát xít hóa bộ máy nhà nước phù hợp với quy luật phát triển của nước Đức. Đáp án C
Quá trình đô thị hóa ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Nguồn ITN Liên Hiệp Quốc ước tính có 4,2 tỷ người đang sống ở các thành phố, chiếm hơn 55% dân số toàn thế giới. Trong 30 năm tới, dân số đô thị toàn cầu có thể thêm khoảng 2,5 tỷ người nữa. Đây là xu hướng tất yếu của sự phát triển xã hội công nghiệp, tuy nhiên cũng đem lại những thách thức như khủng hoảng nhà ở, quá tải cơ sở hạ tầng, thất nghiệp, khu ổ chuột, dịch bệnh, ô nhiễm, đảo nhiệt độ, tội phạm… Nhận thức được những thách thức to lớn đó, năm 2015, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thiết lập 17 mục tiêu toàn cầu SDGs nhằm đạt được một tương lai tốt đẹp và phát triển bền vững hơn cho mọi người. Trong kế hoạch chi tiết, các thành phố được coi là điểm nóng để đạt được những mục tiêu đó vào năm 2030 khi mà các thành phố, thông qua công nghệ thông minh sẽ tạo ra hệ sinh thái bền vững bao gồm các mối quan tâm về xã hội và môi trường. Quy hoạch và phát triển đô thị để đối phó với những thách thức phát sinh từ quá trình đô thị hóa và tính không bền vững của các dạng đô thị hiện có là công cụ quan trọng giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế và môi trường. Cách thức mà chính quyền có thể giải quyết tốt nhất là áp dụng cách tiếp cận toàn diện các nguồn lực vào những chiến lược dài hạn nhằm thúc đẩy các khía cạnh bền vững về xã hội, kinh tế và môi trường. Để đạt được mục tiêu này, phải quản trị các nguồn lực nhằm tích hợp các giải pháp công nghệ sáng tạo và mô hình tổ chức hiện đại trong lĩnh vực quy hoạch và quản trị đô thị. Do đó, sự phát triển thành phố thông minh đã trở nên nổi bật những năm gần đây như một giải pháp đầy hứa hẹn. Tại Việt Nam, nhằm định hướng phát triển và quản lý tốt quy hoạch đô thị, bảo đảm phát triển bền vững, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đề ra mục tiêu tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2025 đạt 45%, đến năm 2030 đạt khoảng 50%. Để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và đô thị hóa, Quốc hội cũng đã ban hành nhiều bộ luật liên quan đến quá trình này. Nhờ đó, mạng lưới đô thị đã được hình thành rõ nét, trở thành hạt nhân, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng và cả nước. Các đô thị lớn, nhất là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, là cực tăng trưởng chủ đạo, lan tỏa tri thức, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh cạnh tranh, hội nhập quốc tế, đa dạng hóa các hoạt động kinh tế, tác động lớn đến sự phát triển nền kinh tế thị trường năng động. Một số khu vực có tốc độ đô thị hóa cao, đóng góp cho tăng trưởng lớn như Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Ninh Thuận, An Giang, Kiên Giang... Quy mô thị trường của ngành thành phố thông minh toàn cầu dự kiến sẽ tăng gấp đôi, từ 410 tỷ USD vào năm 2020 lên 820 tỷ USD vào năm 2025 bao gồm vốn xã hội và đầu tư vào con người, kết hợp với giao thông và cơ sở hạ tầng viễn thông cho kinh tế và phát triển bền vững. Mặc dù vậy, thời gian qua đô thị hóa, phát triển đô thị và phát triển kinh tế đô thị nước ta vẫn còn nhiều hạn chế như đô thị hóa không đồng đều giữa các vùng, miền dẫn đến văn hóa co cụm vùng miền làm hạn chế sự phát triển; tỷ lệ đô thị hóa còn thấp so với mức trung bình của các nước trong khu vực ASEAN và bình quân của thế giới. Quá trình đô thị hóa phát triển theo chiều rộng là chủ yếu với mật độ thấp và phân tán thiếu kết nối, gây lãng phí về đất đai, hạn chế tích tụ kinh tế, tăng trưởng về số lượng chưa đi đôi với chất lượng, hạ tầng chưa đồng bộ hiện đại … Chính vì vậy, việc nghiên cứu và phân tích mối quan hệ giữa đô thị hóa và tăng trưởng kinh tế là cần thiết trong bối cảnh hiện nay để nâng cao nhận thức chung toàn xã hội cũng như kiến nghị các giải pháp nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Ở đây, chúng tôi xin đề xuất 5 vấn đề cụ thể góp phần đô thị hóa bền vững. Đầu tiên, cần nâng cao nhận thức chung toàn xã hội; đô thị hóa là quá trình tất yếu của sự nghiệp công nghiệp hóa bao gồm cả thách thức và cơ hội. Các đô thị được quy hoạch và phát triển kết nối tốt sẽ là nguồn lực sản phẩm vĩ mô chủ yếu cho sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc gia. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động đến các đô thị và hình thành khái niệm “thành phố thông minh” đem lại cơ hội to lớn để giải quyết các vấn đề cụ thể của đô thị là quy hoạch, tòa nhà, kết nối, dữ liệu, năng lượng, quản trị và giao thông… Bên cạnh đó, để công nghệ được tích hợp tại các thành phố thông minh, cần đáp ứng ba tiêu chí. Đầu tiên, khái niệm về tính bền vững nên vượt ra ngoài hệ sinh thái kinh tế. Một thành phố bền vững phải có tiêu chuẩn lành mạnh phục vụ con người sinh hoạt hòa nhập, tiết kiệm, thích ứng và bền vững ở 3 phương diện chính nhà ở dễ tiếp cận; không gian công cộng và sử dụng tiện ích hòa nhập; và hệ thống giao thông toàn diện. Thứ hai, bên cạnh thiết kế quy hoạch đô thị tốt thì thực hành quy hoạch đô thị rất quan trọng. Thứ ba, thành công của thành phố thông minh phụ thuộc vào các doanh nghiệp đổi mới đáp ứng các thách thức của cách mạng công nghiệp lần thứ tư và là một phần không thể thiếu của quy trình. Cùng với đó, cần nghiên cứu mô hình chính quyền đô thị tự chủ/tự quản với sự tham gia tích cực của cộng đồng xã hội để phát triển nguồn vốn vô tận cho quản trị đô thị hiện đại. Từng bước xây dựng và triển khai áp dụng công nghệ số để phát triển mô hình đô thị 2 cấp theo hướng tinh giản với cấp quận là cấp cơ sở cho thành phố trực thuộc Trung ương nhằm bảo đảm tốt cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động, hiệu quả của thể chế. Ngoài ra, kết nối đối tác trong nước, khu vực đặc biệt là ASEAN và quốc tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương sẽ quyết định thành công của các thành phố thông minh trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Song song với việc xây dựng mô hình mới cần ưu tiên nghiên cứu và xây dựng những bộ luật tương ứng để bảo đảm tính thực thi; đây cũng là tiêu chí chủ yếu đánh giá hoạt động hiệu quả của các nhà lập pháp. Đồng thời, người dân trong quá trình đô thị hóa cũng cần nắm bắt cơ hội để trở thành công dân đô thị thông minh trong việc thượng tôn phát luật và tự đào tạo kỹ năng kết nối cộng đồng xã hội của thời đại công nghệ nhằm nâng tầm đẳng cấp công dân và hội nhập, góp phần thúc đẩy, phát triển bền vững nguồn lực xã hội đô thị. Cuối cùng, trong một thế giới đầy biến động và thay đổi khó lường, tầm nhìn của lãnh đạo quốc gia phải đi trước một bước. Theo các nhà chiến lược vĩ mô thì cần xác định tầm nhìn đến năm 2050 là Việt Nam phát triển ngang tầm các quốc gia phát triển của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và thế giới. Tầm nhìn đó phải được cụ thể hóa thông qua xây dựng quy hoạch đô thị đến năm 2050 để làm nền tảng cho các kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.
Câu hỏi So sánh quá trình phát xít hóa ở Đức và quân phiệt hóa ở Nhật Trả lời – Ở Đức, quá trình phát xít hóa diễn ra thông qua sự chuyển đổi từ chế độ dân chủ tư sản đại nghị chuyển sang chế độ độc tài phát xít. Ở Nhật Bản, do tồn tại sẵn chế độ Thiên hoàng, quá trình phát xít hóa chính là quá trình quân phiệt hóa bộ máy này nước và tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa. – Quá trình phát xít hóa ở Đức diễn ra trong thời gian ngắn hơn. Ở Nhật Bản, quá trình quân phiệt hóa kéo dài trong suốt thập kỉ 30 thông qua những cuộc đảo chính giữa các tập đoàn tư bản và các thế lực quân phiệt của những người lao động diễn ra quyết liệt. Cùng THPT Trịnh Hoài Đức tìm hiểu về phát xít Đức và quân phiện Nhật nhé ! 1. Phát xít Đức Sơ lược Đức Quốc xã, còn gọi là Đệ Tam Đế chế hay Đế chế thứ ba tiếng Đức Drittes Reich, là nước Đức trong thời kỳ 1933 – 1945 đặt dưới một chế độ độc tài toàn trị chịu sự kiểm soát của Adolf Hitler và Đảng Quốc xã NSDAP. Dưới sự thống trị của Hitler, nước Đức đã biến đổi thành một nhà nước phát xít toàn trị cai quản gần như mọi mặt của đời sống. Tên gọi chính thức của quốc gia này là Deutsches Reich Đế chế Đức từ 1933 đến 1943 và Großdeutsches Reich Đế chế Đại Đức từ 1943 đến 1945. Đức Quốc Xã chấm dứt sự tồn tại của mình vào tháng 5 năm 1945 sau khi bại trận trước quân Đồng Minh, sự kiện đánh dấu hồi kết cho Chiến tranh thế giới thứ hai tại châu Âu. Nét đặc trưng Một nét đặc trưng nổi bật của Đức Quốc Xã là vấn đề phân biệt chủng tộc, đặc biệt là bài Do Thái. Các dân tộc German chủng tộc Bắc Âu được cho là chủng tộc Aryan thuần khiết nhất, do đó là chủng tộc thượng đẳng. Hàng triệu người Do Thái và các nạn nhân khác, bất kỳ ai mà Quốc xã cho là “đáng ghét, hạ đẳng, không mong muốn”, đã bị khủng bố và tàn sát trong cuộc diệt chủng Holocaust. Những địch thủ đối lập chống lại quy tắc của Hitler đều bị đàn áp một cách tàn nhẫn. Quốc xã đã giam cầm, trục xuất và giết hại những người theo chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Các Giáo hội Cơ đốc cũng bị áp bức, với hàng loạt lãnh đạo bị bắt giam. Nền giáo dục tập trung vào sinh học về chủng tộc, chính sách dân số và rèn luyện thể lực để thực hiện nghĩa vụ quân sự. Nữ giới bị hạn chế về nghề nghiệp và những cơ hội được học tập. Các hoạt động du lịch và giải trí được tổ chức thông qua chương trình Kraft durch Freude, và Thế vận hội mùa hè 1936 là một dịp để Đế chế Thứ ba giới thiệu mình ra với thế giới. Bộ trưởng tuyên truyền Joseph Goebbels đã sử dụng phim ảnh, các cuộc mít tinh lớn, và tài hùng biện của Hitler một cách hiệu quả để khống chế dư luận. Chính quyền kiểm soát biểu hiện nghệ thuật, thúc đẩy các hình thức nghệ thuật cụ thể và ngăn chặn hoặc không khuyến khích các hình thức khác. 2. Chủ nghĩa quân phiệt Nhật Lịch sử hình thành chủ nghĩa quân phiệt ở Nhật Bản Ngay từ thập niên 1880, triều đình Minh Trị đã xúc tiến xây dựng một quân đội hùng mạnh nhằm mục tiêu phát động các cuộc chiến tranh xâm lược với lân bang, cụ thể mục tiêu trước mắt chính là Trung Quốc thời nhà Thanh. Tháng 11 năm 1880, Bộ trưởng Bộ Tổng tham mưu Yamagata Aritomo Sơn Huyện Hữu Bằng trình lên cho Thiên hoàng Minh Trị bản “Lân bang binh bị lược”. Đến năm 1882, “Trình báo về tài chính để tăng cường lục quân và hải quân” được xuất bản, chủ trương gấp rút tăng cường quân bị dù phải chấp nhận hy sinh tất cả. Thiên hoàng Minh Trị tỏ ý hài lòng và cho tiến hành thực thi. Cùng năm đó ông triệu kiến tất cả các Trưởng quan tại các địa phương và ra Thánh chỉ với nội dung “Các khanh đều là quan địa phương, vậy tất nhiên phải hiểu ý muốn của Trẫm, đảm bảo chấp hành quán triệt những ý muốn đó”. Dưới triều đại của mình, Thiên hoàng Minh Trị luôn kiên trì chính sách kiêm lục hợp gồm thu bốn bể và yểm bác hoành gồm thu toàn cầu, tức chính sách bành trướng xâm lược, mở rộng lãnh thổ ra bên ngoài. Có lần ông đích thân tham gia diễn tập quân sự và thường cho gọi các binh sĩ đến để tuyên dương, khuyến khích “oai nước”, đề cao “vận nước” của Nhật Bản. Theo Đại Nhật Bản Đế quốc Hiến pháp năm 1889, Nhật Bản là quốc gia theo chính thể quân chủ lập hiến, Thiên hoàng và tập đoàn quân phiệt nắm giữ mọi quyền hành. Theo Hiến pháp, Thiên hoàng có quyền hành “thiêng liêng bất khả xâm phạm”, là Nguyên thủ quốc gia, nắm trọn quyền thống trị. Tuy nhiên, Thiên hoàng buộc phải dựa vào các điều luật ghi trong Hiến pháp để thực thi đại quyền của mình, và khi Thiên hoàng lấy danh nghĩa của mình để ban bố các sắc lệnh về pháp luật, quốc vụ thì “phải được quốc vụ đại thần cùng ký tên”. Như vậy bản Hiến pháp cũng đã hạn chế ảnh hưởng của Thiên hoàng trong việc triều chính, góp phần giúp Nhật Bản chuyển dần từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ quân chủ lập hiến, chính trị đảng phái của giai cấp tư sản. Các cuộc chiến tranh và sự sụp đổ Thiên hoàng Chiêu Hòa 1926 – 1989 – Thiên hoàng Nhật Bản trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong suốt thời gian tồn tại của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản, họ đã thực hiện những cuộc chiến tranh mở mang bờ cõi – Chiến tranh Thanh-Nhật 1894 – 1895 – Chiến tranh Nga-Nhật 1904 – 1905 Với chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh trên, Nhật Bản trở thành một trong những nước đế quốc. – Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 – 1918 – Trong sự kiện Mãn Châu 1931, quân phiệt Nhật khiêu khích để lấy cớ xâm chiếm Mãn Châu Đông Bắc Trung Quốc. – Chiến tranh châu Á – Thái Bình Dương 1941 – 1945. Ngày 9 tháng 8 năm 1945, Hồng quân Liên Xô phát động Chiến dịch Mãn Châu. Chiến dịch kết thúc với thắng lợi của Hồng quân, 8 giờ sáng ngày 15 tháng 8, Thiên hoàng Chiêu Hòa đã đưa ra tuyên bố trên đài phát thanh Đông Kinh “Nhật Bản chấp nhận các điều kiện của Tuyên bố Potsdam, chúng ta vô cùng thương tiếc những người đã chết nhưng bây giờ là lúc cần phải kiềm chế cảm xúc của mình… Hãy để cho mọi người được sống với nhau như một gia đình từ thế hệ này đến thế hệ khác, Tổ quốc thiêng liêng luôn đặt niềm tin vĩnh cửu của mình vào họ và hãy suy nghĩ về gánh nặng của trách nhiệm trên con đường đi tới tương lai. Cần phải tập hợp tất cả lực lượng để xây dựng tương lai. Hãy đem sự trung thành vô hạn, sự giải phóng về tinh thần, sự trau dồi trí tuệ và không ngừng vượt qua khó khăn để làm sao cho sự vinh hiển của đế quốc luôn song hành với sự tiến bộ của thế giới” – Thiên hoàng Chiêu Hòa, phát biểu trên đài phát thanh Đông Kinh, 8 giờ sáng ngày 15 tháng 8 năm 1945 Cùng với các đòn tấn công của quân Đồng Minh trên chiến trường Thái Bình Dương, chiến dịch Mãn Châu góp phần đẩy nhanh sự đầu hàng của Đế quốc Nhật Bản và qua đó tạo điều kiện cho nhiều nước ở châu Á bị Nhật chiếm đóng giành được độc lập. Ngày 17 tháng 8 năm 1945, nước Cộng hòa Indonesia tuyên bố độc lập. Các nước khác như Myanma, Campuchia, Lào cũng thoát khỏi ánh đô hộ của Nhật Bản. Philippine được quân đội Hoa Kỳ giải phóng, Malaysia được quân đội Anh và Úc giải phóng. Miền Bắc Triều Tiên phía trên vĩ tuyến 38 do quân đội Liên Xô giải phóng. Miền Nam Triều Tiên do quân đội Hoa Kỳ giải phóng theo lộ trình được các nước đồng minh thỏa thuận tại Tuyên bố Potsdam tháng 7-1945. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với thất bại của Nhật Bản. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 là ngày xảy ra nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử không những là ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” ở Việt Nam, đây còn là ngày mà việc chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện được đại biểu của 9 nước Hoa Kỳ, Liên bang Xô viết, Anh Quốc, Pháp, Trung Quốc, Canada, Úc, Hà Lan và Tân Tây Lan ký kết chấp nhận trên chiến hạm Missuri buông neo tại vịnh Đông Kinh. Chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản sụp đổ. Đăng bởi THPT Trịnh Hoài Đức Chuyên mục Lớp 11, Lịch Sử 11
Cả 3 nước này đều có những đặc điểm về kinh tế và bản chất và quan hệ quốc tế +nghèo tài nguyên, ít thuộc địa thị ,trường tiêu thụ hẹp. +về bản chất đều thục hiện nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sovanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản chủ nghĩa của tư bản tài chính. +đều bất mãn với hệ thống vec-xai oa-sinh-tơn, muốn dùng vũ lực chia lại thế giới. Điểm khác nhau Chủ nghĩa phát xít ở Đức Italia Nhật khác nhau ở quá trình xác lập và tiềm lực. _quá trình xác lập ĐỨC chế độ dân chủ đại nghị sang chế độ chuyên chế phát xít quá trình phát xít hóa nhanh chóng. tiềm lực lớn. Italia thay thế nền dân chủ đại nghị bằng chế độ phát xít. tiềm lực hạn chế. Nhật chế độ chuyên chế của thiên hoàng dựa trên nền tảng chủ nghĩa quân phiệt. quá trình diễn ra trong nội bộ chính sách của nhà nước quá trình phát xít hóa diễn ra chậm kéo dài. tiềm lục khá mạnh
Quá trình xác lập chủ nghĩa phát xít ở Đức mang đặc điểm nào dưới đây? A. Quá trình phát xít hóa diễn ra nhanh chóng. B. Quá trình phát xít hóa diễn ra nhanh và sớm C. Quá trình phát xít hóa kéo dài về thời gian. D. Quá trình phát xít hóa gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm lược. Hướng dẫn Quá trình xác lập chủ nghĩa phát xít ở Đức mang những đặc điểm sau – Nước Đức chuyển từ chế độ dân chủ đại nghị sang chế độ chuyên chế phát xít. – Quá trình phát xít hóa ở Đức diễn ra một cách nhanh chóng, chỉ trong vài năm diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933. Ngày 30-1-1933, Tổng thống Hin-đen-bua chỉ định Hít-le lên làm Thủ tướng, mở ra một thời kì đen tối trong lịch sử nước Đức. ⇒ Chọn đáp án A. – Đáp án B là đặc điểm của quá trình xác lập chủ nghĩa phát xít ở Italia. – Đáp án C, D là đặc điểm của quá trình xác lập chủ nghĩa phát xít ở Nhật Bản. Đáp án cần chọn là A
quá trình phát xít hóa ở đức